Độc đáo của Nam Cao – Kim Lân trong đề tài về người nông dân

                                                           

Trong văn xuôi Việt Nam trước CM8, phản ánh hiện thực đã trở thành một thánh địa của dòng văn học hiện thực phê phán. Trên mảnh đất ấy, đề tài người nông dân cơ cực, làng quê tù đọng được khai thác tưởng chừng ở mức thấu triệt với tên tuổi: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan …và các tác phẩm rung động trên văn đàn một thời “Tắt Đèn”; Bước đường cùng”… thế mà sau những cây bút đàn anh này, Nam Cao và Kim Lân cũng trên mảnh đất xưa cũ ấy đã dựng dậy những ngôi lầu nghệ thuật của mình đứng vững giữa lòng người, thách thức với thời gian đó là “Chí Phèo” và “Vợ Nhặt”; Phải chăng sự độc đáo sáng tạo của các nhà văn đã kết tinh lên thành tựu đó.

I- CÁCH KHÁM PHÁ RIÊNG VỀ SỐ PHẬN CẢNH NGỘ CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN:

1-Quan niệm:

Sinh thời Nam Cao Luôn coi trọng hoạt động sáng tạo trong nghệ thuật “Văn chương không cần đến sự khéo tay,Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi hứng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có”. Nam Cao đã sống và viết theo quan niệm ấy mà Chí Phèo là một minh chứng.  Còn Kim Lân từ bản thảo sau CM8 ngót hơn 10 năm trăn trở nhà văn mới vừa lòng buông dấu chấm cuối cùng cho truyện ngắn Vợ Nhặt xem thế cũng đủ biết sự nhọc nhằn của Kim Lân. Quan niệm viết của Nam Cao đã có tiếng nói chung sự độc đáo và sáng tạo và sự thật chính điều ấy đã tạo nên thành công của mỗi tác phẩm có thể hiện được dấu ấn sáng tạo cá thể rất rõ ràng dù cùng chung viết về một đề tài.

2- Phân tích đối chứng của hai tác phẩm

Dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước CM8 thường khai thác một khía cạnh phổ biến về đề tài người nông dân đó là tình cảnh bi thảm của họ. Cho đến tận bây giờ VN vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu, các nhà tâm lý nhân chủng học khẳng định: Trong mỗi con người Việt Nam dù ở tầng lớp nào cũng có một người nông dân. Nói như vậy nghĩa là những vấn đề nông dân là những vấn đề phổ biến và nhà văn luôn hiểu về vấn đề đó một cách sâu sắc nhất. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản tạo nên những trang viết truyện ngắn về người nông dân :Trần Tiêu, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố …Tìm chọn đề tài nghười nông dân, để thể hiện khác biệt, với Nam Cao và Kim Lân những nhà văn lớp sau, rõ ràng là đương đầu với một thách thức lớn .

Đọc Tắt Đèn của Ngô Tất Tố người đọc tiếp cận với một không gian ngột ngạt oi bức, nỗi khổ đè nặng trên đôi vai gầy yếu, nỗi đau xé lòng chị Dậu dường như đã thành nỗi đau tột cùng. Nhưng khi nghe tiếng chửi tục tĩu, khuôn mặt đầy vết sẹo bước chân chuyệnh choạng ngật ngưỡng của Chí Phèo bước đi trên những dòng văn của Nam Cao ta mới thấy rằng đó mới là kẻ khốn cùng ở nông dân Việt Nam ngày trước. Tình cảm của Chí Phèo khác hẳn với các nhân vật trước đó, cũng là người nông dân canh điền khoẻ mạnh và trung thực nhưng bị vu oan biến Chí Phèo thành một tên lưu manh mất hết nhân tính lẫn nhân hình. Cảnh ngộ ấy, các tác phảm hiện thực phê phán chưa đề cập khai thác được.Với nó, Nam Cao không chỉ lột trần sự thật đau khổ của người nông dân vừa nêu được một quy luật xuất hiện trong làng xã Việt Nam trước CM8: hiện tượng người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hoá. Tình cảnh ấy của Chí Phèo đã làm cho số phận người nông dân trung thực rơi xuống vực thẳm của bi kịch. Trước kia là nỗi khổ chị Dậu phải bán con hay bán chó để cứu chồng, tồn tại; Xem thế cũng là trắng tay tưởng như không thể còn bòn kiếm gì hơn; nhưng Chí Phèo còn tìm thêm thứ tài sản quý giá nhất của mình là nhân tính, là linh hồn. Chị Dậu dù xác xơ nghèo nhưng vẫn còn là một con người  còn Chí khi bán linh hồn của mình thì thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Bắt đầu từ đây, những bi kịch đau đớn nhất như những cơn dông bão ập xuống quất vào số phận của Chí Phèo. Chí Phèo khi đã mất cả nhân hình và nhân tính thì mất hết tất cả. Chí không chấp nhận trở lại làm người với lý lịch đầy bất hảo bộ mặt sứt sẹo, hành động côn đồ, Chí Phèo đã làm cho cả làng Vũ Đại ngoài thị Nở không một ai tôn trọng . Không còn một chút lương tâm nào hết, vì vậy Chí Phèo bị cả làng Vũ Đại chối bỏ và  sa vào tấn bi kịch đau đớn nhất bị từ chối làm người.

Phát hiện ra nỗi khổ tột cùng của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến và thể hiện nó trên trang viết qua khám phá bi kịch nội tâm Chí Phèo Nam Cao đã khẳng định được tuyên ngôn của mình, tìm được chỗ đứng cho tác phẩm đó là sự khám phá sáng tạo và có cái riêng của tác phẩm với phong cách đặc sắc mang tên Nam Cao và nhân vật Chí Phèo tạo ra sức ám ảnh không kém hiện tượng nhân vật chị Dậu trong Tắt Đèn được coi là kinh điển của văn học hiện thực phê phán đương thời.

b-So với Nam Cao, Kim Lân khi viết Vợ Nhặt còn ở bước sau nữa thời gian sẽ là vô nghĩa nếu người viết không đủ năng lực để khám phá sáng tạo, Kim Lân đã không như vậy.

b1. Nhân vật người nông dân của Kim Lân cũng là những nhân vật đói nghèo nhưng cái đói nghèo ở đây được đặt trong một bối cảnh khủng khiếp nạn đói 1945 làm hơn 2 triệu người chết đoí. Bối cảnh đó làm cho con người bộc lộ đầy đủ cá tính và giá trị của mình .

Nhân vật nông dân đầu tiên xuất hiện là Tràng. Ở thời điểm ấy., Tràng, người nông dân dân nghèo ngụ cư như một nhánh cây khô trước cơn bão đói “Tràng cúi đầu bước từng bước chậm chạp” còn cô gái vợ Tràng tiều tuỵ, đói khổ chấp nhận theo không Tràng về làm vợ với 4 bát bánh đúc. Bà cụ Tứ suốt kiếp đói nghèo tủi phận với cả trong mơ cũng không dám nghĩ tới cưới vợ cho con, bà nghĩ về tương lai đầu u ám chỉ có một chút le lói niềm tin.

* Khám phá chi tiết ấy và đưa vào truyện, Kim Lân đã khẳng định sự sáng tạo của mình: điểm sáng tạo ở đây là nêu nên giá trị của người nông dân trong nạn đói, giá của họ rẻ rúng quá! Con chó nhà chị Dậu còn được vài hào, còn con người ở đây thì như cọng rơm nát vứt đầu đường xó chợ, con người trong truyện là những sinh linh bé nhỏ yếu ớt chậm bước về nghĩa địa.

Các tác phẩm hiện thực phê phán có nói về cái chết, nhưng ít có tác phẩm nào tái hiện được cái chết ám ảnh như Kim Lân trong Vợ Nhặt. Cả thế giới xóm ngụ cư nặng mùi tử khí, tiếng khóc ai oán nhà có người chết bao kín không gian và thời gian. Nhân vật trong hiện thực phê phán khát khao bớt cảnh khổ còn ở đây “khó ai có thể tin mình sống nổi“. Chí Phèo trong lúc tỉnh còn khát khao một tổ ấm còn mẹ con Tràng không dám tin có một hạnh phúc trong tay. Cái chết quả thực là một bi thương, ngòi bút Kim Lân đã đạt đến điều đó và tạo nên cái riêng cho mình.

Tuy nhiên sự khám phá của Kim Lân không chỉ dừng ở đó, ông còn tìm thấy sức mạnh của tình yêu trong thẳm sâu những sinh linh bé nhỏ. Tràng lấy vợ, một câu chuyện dở khóc dở cười nhưng sau sự kiện bi hài ấy con người và thế giới của riêng Tràng thay đổi:  vợ hiền thảo hơn, Tràng phục sinh. Bà mẹ lần đầu tiên trên trán bớt đi đám mây u ám. Tình yêu thương đã khiến cho ba sinh linh nhỏ bé và mái nhà của họ không bị vùi xuống vực thẳm của sự chết chóc, trong thời khắc quyết định số phận, phải chăng họ đã chụm lại sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu

Và niềm tin đó là điều các tác phẩm trước đó chưa đề cập: Chị Dậu, Chí Phèo mới chỉ vẫy vùng trong đơn độc. Chính vì thế tình thuỷ chung của chị Dậu vô nghĩa, tình yêu của Chí Phèo trở thành hận thù và cuối truyện  nhòe trang máu đỏ..

II – Sự khác nhau về cách kết thúc-Nguyên nhân -ý nghĩa :

1- Cách kết thúc.

Chí Phèo bị cả xã hội Vũ Đại từ chối khinh rẻ. Và đau đớn vô cùng khi chính Chí Phèo bị ngay cả người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn là Thị  Nở từ bỏ, thời khắc ấy Chí Phèo lại uống rượu; Nhưng kỳ lạ thay Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh. Chí Phèo đã quyết định cầm dao đi tìm và giết kẻ đã gây ra bất hạnh cho mình. Bá Kiến chết, Chí phèo tự tử, còn Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong óc nghĩ ngay đến chiếc lò gạch bỏ quên.

Sau đêm tân hôn khi cảm nhận vị đắng chát của miếng chè khoán trong bữa cơm đạm bạc ngày đó trong óc Tràng hiện hình ảnh những người đi phá kho thóc Nhật vơí lá cờ đỏ tung bay .

Đó là cách kết thúc của hai truyện ngắn Vợ Nhặt và Chí Phèo, số phận nhân vật đã đến hồi cáo chung một bi kịch đầy máu và uất hạn, với cách kết thúc đầu cuối tương ứng Nam Cao đã mở ra một bi kịch của tương lai; Còn Vợ Nhặt nhân vật đứng trên bờ vực thẳm cái chết, chấp nhận một bi kịch của hiện tại, nhưng truyện không khép lại ở đó mà mở ra một tương lai mới hứa hẹn sự đổi đời.

2- Nguyên nhân :

Truyện ngắn Chí Phèo viết vào năm 1938 đây là thời điểm CM8 chưa thành công. Các nhà văn tri thức Tiểu tư sản ít người cảm nhận được sự thành công của CM. Hầu hết đều trăn trở băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” trong bối cảnh nước mất nhà tan. Nam Cao là nhà văn tiến bộ theo khuynh hướng phản ánh hiện thực cố nhiên thế giới quan của ông có điểm dừng nhất đình do vậy nhân vật của ông vùng vẫy không không lối thoát: Lang Rận, Lão Hạc,  Thứ… trong các tác phảm của ông đều có chung sự cùng quẫn ấy. Chỉ có sau này, khi Nam Cao đi theo kháng chiến và thay đổi phong cách sáng tác thì nhân vật của ông mới tìm con đường đi đúng, một lối thoát mà ở thời điểm ông đang là cây bút hiện thực phê phán không sao tìm nổi.

Ngược lại,.Vợ Nhặt viết sau CM8 và mãi 1945 mới hoàn thành đây là thời điểm Kim Lân tước bỏ toàn bộ quan niệm sáng tác cũ, ông đã là nhà văn CM, thế giơí quan của ông là thế giới quan của thời đại mới, dưới ánh sáng của Đảng; mặt khác phương pháp sáng tác của dòng văn học Cách mạng Việt Nam hiện đại đã khẳng định rất rõ ràng hướng viết cho các ngòi bút. Bởi vậy, nhân vật của ông không sa vào các bi kịch thông lệ và chấm dứt số phận ở những trang kết thúc. Ngược lại, ngòi bút nhà văn CM toả ra ánh sáng dẫn dường cho nhân vật bước tiếp trên chặng trần thế  hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.

3 – ý nghĩa:

Trước hết, cách kết thúc đều phản ánh một cách trung thực những hiện thực đã xảy ra đối với các nhân vật, phù hợp tính chất bước phát triển của số phận nhân vật, song mỗi cách kết thúc đều mang những giá trị riêng. Với cách kết thúc dữ dội trong Chí Phèo, Nam Cao đã sáng tạo nên nhân vật nô lệ thức tỉnh đứng lên đòi quyền làm người, đồng thời cũng dự báo sự thật đó là mâu thuẫn trong nông dân và địa chủ đã phát triển tới mức báo động. Nó đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Kim Lân dùng cách kết thúc mở, lại là đề cao phẩm chất ham sống, tinh thần chống lại định mệnh của người nông dân. Mặc dù ngòi bút của Ông không miêu tả cảnh gia đình Tràng đi theo CM, nhưng logic của cuộc sống đã khẳng định đó là con đường tất yếu họ phải đi và như vậy …

III- Đặc sắc về tư tưởng nhân đạo

1- Trong quan niệm về nghệ thuật của Nam Cao

Ông cho rằng văn chương phải nhằm mục đích: “Ca tụng lòng thương tình bác ái công bình”. Tất nhiên, văn học hiện thực phê phán cũng sáng tác trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo;song Nam Cao vẫn tự tạo ra sự độc đáo cho chính mình trên bình diện này. Khi thể hiện giá trị nhân đạo các tác phẩm hiện thực phê phán thường đề cập sự cảm thông và và phát hiện phẩm chát tốt đẹp của người nông dân. Chí Phèo bị nhà tù thực dân và thủ đoạn tàn bạo của Bá Kiến trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng Nam Cao vẫn tin trong đáy sâu thẳm tâm hồn đen độc của con quỷ ấy vẫn tồn tại bản chất lương thiện của người nông dân lao động mà không thể sức mạnh nào tiêu diệt được. Cho đến khi gặp thị Nở, mối tình chân thực của người đàn bà khốn khổ này mới có thể làm cho thức dậy cái chất con người của anh ta, hương vị tình yêu quyện trong bát cháo hành của Thị Nở đã gọi được linh hồn thuần hậu của Chí Phèo trở về trong suốt thời gian u mê bởi bùa quỷ dữ – Đó chính là cái nhìn nhân đạo độc đáo của Nam Cao

2 – Kim Lân khi viết Vợ Nhặt

Kim Lân đã nói rõ ý đồ sáng tạo của mình,  tâm sự của nhân vật chính là ý nghĩa nhân bản của truyện ngắn này ” trong sự đói túng quay quắt trong bất cứ hoàn cảnh khốn cùng nào người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên  trên cái chết cái thảm đạm mà vui để mà hy vọng“. Chính vì thế mà giá trị lớn nhất và cao nhất không phải là giá trị hiện thực là bản cáo trạng mà là giá trị nhân đạo. Từ bóng tối hoàn cảnh, Kim Lân muốn làm toả sáng một chất thơ của hồn người. Ánh sáng của tình người toả ra  hào quàng đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn tha thiết và cảm động. Mặt khác kết thúc mở với dòng suy nghĩ của Tràng là cách kết thúc mà tất cả các truyện hiện thực phê phán không đạt đến.Ý nghĩa nhân văn tạo ra nằm ngay trong chính nhân vật đó. Đấy là một thế giới mới vẫy gọi,  nó rất gần thân thuộc cũng là một làng quê Việt Nam đoàn người nông dân đói, cũng là con đê làng với cái tên quê kiểng : “đê sộp“. Điều quan trọng ở đây cần nhấn mạnh, đó là thế giới cả hạnh phúc ấm lo thực sự mà nhân dân làm chủ đời mình . Tràng và gia đình anh hiển nhiên sẽ lựa chọn sống hay là chết? và con đường  lựa chọn của anh rất rõ .

Vạch con đường cho nhân vật không chỉ biểu hiện giá trị nhân đạo đơn thuần, mà giá thị nhân đạo của dòng văn học CM Kim Lân tiếp thu nó để tạo nên sự độc đáo của mình       

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *